Cập nhật lúc :3:40 PM, 16/08/2010
“Nếu Trung Quốc dùng tên lửa Dong Feng 21 đánh tàu sân bay Mỹ, Mỹ sẽ phản công bằng vũ khí hạt nhân”, tờ Wen Wei Po dẫn lời một đô đốc Mỹ giấu tên cho biết.
>> 30 năm nữa Trung Quốc sẽ thống trị châu Á?Thông tin trên xuất hiện trong bối cảnh Mỹ chuẩn bị đưa tàu sân bay USS George Washington tới tập trận với Hàn Quốc ở Hoàng Hải trong sự phản đối của Trung Quốc.
Mỹ chuẩn bị đưa tàu sân bay USS George Washington tới gần Trung Quốc. |
Dù hãng tin này không nói chính xác đây là dự án gì nhưng họ phát đi một bức ảnh của một tên lửa đạn đạo tầm trung Dong Feng 21C, “anh em” với Dong Feng 21D, một lọa tên lửa có mục tiêu là diệt hàng không mẫu hạm của Mỹ.
Tên lửa Trung Quốc ngày càng mạnh. |
Chosun Ilbo đưa tin, việc đưa tin về loại vũ khí mới có thể là động thái nhằm đáp trả việc Mỹ triển khai hàng không mẫu hạm USS George Washington tới biển Đông và Hoàng Hải, gần Trung Quốc.
Dong Feng 21 là loại tên lửa sử dụng nhiên liệu rắn hiện đại tầm trung có thể phóng bằng xe phóng của Trung Quốc. DF-21 có tầm phóng 1.800 km (DF-21A) và có khả năng mang theo một đầu đạn hạt nhân nặng 600kg.
LỢI ÍCH CỦA MỸ Ở BIỂN ĐÔNG
Biển Đông là vùng biển lớn thứ hai thế giới, với diện tích 648.000 km2.
Vùng biển bao gồm nhiều tuyến đường biển quan trọng nối giữa Thái Bình
Dương, Ấn Độ Dương, châu Phi, Trung Đông và các nước Đông Á khác. Hầu
hết các nhiên liệu được vận chuyển từ Trung Đông và châu Phi tới Nhật
Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc đều phải đi qua biển Đông. Nếu xảy ra xung
đột vũ trang ở biển Đông, tuyến đường biển này bị cắt đứt thì lợi ích
của hầu hết tất cả các nước trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, bao
gồm cả Mỹ, cũng sẽ bị ảnh hưởng bất lợi.
Bru-nây,
Trung Quốc, Ma-lai-xi-a, Phi-lip-pin, Việt Nam và đảo Đài Loan đều
tuyên bố quyền chủ quyền đối với các vùng nước lãnh thổ và thềm lục địa ở
biển Đông. Trung Quốc, đảo Đài Loan và Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối
với quần đảo Hoàng Sa. Phi-lip-pin, Ma-lai-xi-a, đảo Đài Loan và Bru-nây
tuyên bố chủ quyền một phần, Trung Quốc và Việt Nam tuyên bố chủ quyền
toàn bộ quần đảo Trường Sa. Khoảng 45 đảo thuộc quần đảo Trường Sa bị
chiếm đóng bởi các lực lượng quân sự của các nước tuyên bố chủ quyền,
trừ Bru-nây. Các nước tranh chấp tại biển Đông tuyên bố chủ quyền dựa
trên quy tắc thềm lục địa, vị trí địa lý hay cơ sở lịch sử. Công ước
Luật biển Liên Hợp Quốc năm 1982 ghi rõ các nước ven biển có quyền tuyên
bố quyền chủ quyền trong vòng 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính
chiều rộng lãnh hải.
Ngoài
vấn đề tranh chấp chủ quyền ở biển Đông, các nước ven biển còn phải đối
mặt với nhiều vấn đề phức tạp khác như cướp biển, ô nhiễm môi trường,
quản lý nguồn cá. Một nửa số các vụ cướp biển trên thế giới diễn ra ở
khu vực Đông Nam Á.[1]
Biển Đông cũng là một khu vực có nhiều lợi ích an ninh cạnh tranh nhau.
Để bảo vệ lợi ích của mình, các nước có tranh chấp chủ quyền tại biển
Đông đang tích cực tìm kiếm giải pháp để giải quyết các vấn đề, tránh
hành động quân sự, và thúc đẩy cơ chế thiết lập hòa bình giải quyết
tranh chấp thông qua hợp tác.
Dính líu của Mỹ trên biển Đông
Biển
Đông là một điểm nóng ngay cả với Mỹ. Các công ty nước ngoài trong đó
có Mỹ được cho phép khai thác dầu khí đã bị vướng vào tranh chấp giữa
những nước tuyên bố chủ quyền.[2]
Trong nhiều thập kỷ gần đây, va chạm quân sự ở biển Đông ngày càng gia
tăng và liên quan tới cả lực lượng của Mỹ. Năm 1995, Trung Quốc đụng độ
với Phi-lip-pin tại bãi đá Vành Khăn thuộc quần đảo Trường Sa. Một vài
thành viên của Quốc hội Mỹ đã đưa ra nghị quyết kêu gọi Mỹ ủng hộ hòa
bình và ổn định trong khu vực. Ngày 10/5/1995, Chính quyền Clinton đã
tuyên bố chống lại việc sử dụng hay đe dọa sử dụng vũ lực để giải quyết
tranh chấp ở biển Đông, nhưng lại không nêu tên Trung Quốc trong tuyên
bố.[3]
Trong
vài tháng gần đây, tàu Mỹ và Trung Quốc đã có khoảng 5 vụ đụng độ tại
khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Ngày 8/3/2009, diễn ra vụ đụng độ hải
quân giữa tàu chiến hạm của Hải quân Mỹ Impeccable và 5 tàu Trung Quốc
tại biển Đông. Trong vụ việc này, Mỹ đã buộc tội Trung Quốc có hành động
quân sự hung hăng tại biển Đông và quấy rối tàu chiến hạm của Mỹ trong
vùng biển quốc tế. Đồng thời, Mỹ cũng gọi đây là hành động nguy hiểm, và
vi phạm luật quốc tế và cho biết “hành động của Trung Quốc là có cân
nhắc”.
Trong
môi trường quốc tế hiện nay, cả Mỹ và Trung Quốc muốn “xây dựng mối
quan hệ tích cực, hợp tác và toàn diện… để giải quyết những thách thức
chung và nắm lấy cơ hội chung”,[4] và “chia sẻ lợi ích chung”[5].
Chính quyền Obama cần sự hợp tác của Trung Quốc để giải quyết cuộc
khủng hoảng kinh tế toàn cầu và Trung Quốc cũng cần xây dựng quan hệ tốt
với Mỹ để tiến tới mục tiêu chính trị quốc tế của mình. Vì vậy, hai
nước Mỹ và Trung Quốc đã đồng ý giải quyết êm thấm các vụ việc trên.
Tuy nhiên, khó có thể đảm bảo rằng các cuộc đụng độ tương tự như vậy sẽ không xảy ra trong tương lai.
Lợi ích của Mỹ tại biển Đông
Lợi
ích của Mỹ tại biển Đông nằm trong lợi ích đa dạng và trải rộng của Mỹ
tại Đông Á/Tây Thái Bình Dương với tư cách là một cường quốc khu vực và
toàn cầu. Trong một báo cáo gần đây, lợi ích an ninh quốc gia của Mỹ bao
gồm: (1) Bảo vệ lãnh thổ Mỹ, người dân Mỹ, đồng minh và lợi ích của Mỹ;
(2) Ổn định khu vực và loại bỏ bất kỳ cường quốc vượt trội hay nhóm
cường quốc nào sẽ đe dọa hay cản trở cơ hội hay lợi ích của Mỹ; (3) Phát
triển khu vực và thúc đẩy tự do thương mại và mở cửa thị trường; (4)
Đảm bảo một thế giới ổn định, an toàn và phi hạt nhân; (5) Thúc đẩy các
giá trị toàn cầu, như quản lý tốt, dân chủ, nhân quyền và tự do tôn
giáo; (6) Đảm bảo tự do hàng hải, điều kiện tiên quyết để ổn định khu
vực và bảo vệ lợi ích của Mỹ.[6]
Những lợi ích này luôn được duy trì cho dù chính quyền Mỹ có thay đổi.
Mỹ gia tăng dính líu vào khu vực châu Á - Thái Bình Dương cũng là để
phục vụ các lợi ích kể trên.
Lợi ích tự do hàng hải
Tự
do hàng hải là lợi ích then chốt và cũng là lợi ích kinh tế và an ninh
quan trọng nhất đối với Mỹ. Biển Đông là tuyến đường thương mại quan
trọng nhất và Mỹ coi tuyến đường này là vùng nước quốc tế cho phép tàu
thuyền quân sự và thương mại tự do qua lại. Một phân tích của Mỹ nêu
“Mối đe dọa đối với tự do hàng hải qua biển Đông sẽ phá vỡ nghiêm trọng
đến kinh tế khu vực. Sự tăng trưởng của kinh tế và an ninh của Mỹ phụ
thuộc vào việc duy trì tự do hàng hải với cả tàu buôn và tàu quân sự”.[7]
Mỹ luôn ủng hộ tự do hàng hải trên thế giới, bao gồm cả biển Đông, và
có lợi ích tại các tuyến đường biển trong khu vực và do đó quan tâm đến
việc giải quyết hòa bình tranh chấp tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa, và các vùng khác.
Quan
ngại sâu sắc về căng thẳng tại biển Đông, Joseph Nye khi còn là trợ lý
bộ trưởng quốc phòng Mỹ về an ninh quốc tế cho biết “Nếu xảy ra hành
động quân sự tại quần đảo Trường Sa và cản trở tự do trên biển, thì Mỹ
sẽ chuẩn bị ứng phó và đảm bảo tự do hàng hải được tiếp tục”.[8]
Hạm
đội Thái Bình Dương của Mỹ, hạm đội 7, hiện đang đóng tại Nhật Bản,
Ha-oai và Xinh-ga-po do tướng Robert Willard chỉ huy hoạt động trên một
vùng biển rộng từ Thái Bình Dương của Mỹ tới Ấn Độ Dương. Hạm đội bao
gồm 180 tàu thuyền, 1.500 máy bay, và 125.000 thủy thủ, khoảng 50 đến 60
tàu của hạm đội qua lại tại vùng biển này hàng ngày.[9]
Lợi ích kinh tế và an ninh
Các
đảo có tranh chấp tại biển Đông được cho là chứa một trữ lượng dầu với
các ước tính khác nhau. Biển Đông được xác định là một trong 10 vùng
biển có trữ lượng dầu khí lớn nhất thế giới.[10]
Từ năm 1972, các công ty dầu khí phương Tây đã khai thác và khám phá
trữ lượng dầu mỏ lớn trong khu vực quanh quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Cuộc khảo sát đầu tiên của Phi-lip-pin về dầu mỏ ở quần đảo Trường Sa
diễn ra ngoài khơi tỉnh đảo Palawan năm 1976. Theo Bộ Năng lượng Mỹ, trữ
lượng dầu mỏ ở biển Đông khoảng 7 tỷ thùng dầu, trong khi Trung tâm
khảo sát địa chất Mỹ ước tính tổng trữ lượng dầu mỏ bao gồm cả những
nguồn năng lượng đã được khám phá và tiềm tàng ở ngoài khơi biển Đông
khoảng 28 tỷ thùng.[11]
Trung Quốc tuyên bố trữ lượng có thể lên tới 200 tỷ thùng, đủ để cung
cấp cho Trung Quốc 1 đến 2 triệu thùng dầu mỗi ngày, tương đương 25%
lượng tiêu thụ dầu mỏ hàng ngày của Trung Quốc hiện nay là 8 triệu
thùng.[12]
Nền
kinh tế Mỹ đã bị tổn thương nghiêm trọng do cuộc khủng hoảng giá dầu
năm 2008. Giá dầu trên thế giới đã có lúc lên tới đỉnh điểm ở mức 145
đôla/thùng hồi tháng 7/2008, và chạm đáy ở mức 34 đôla/thùng tháng
12/2008. Hiện tại giá dầu đang dao động trong khoảng 65-75 đôla/thùng.
Mặc dù Mỹ đã phát triển các nguồn năng lượng thay thế như năng lượng
gió, mặt trời… nhưng dầu mỏ đến nay vẫn là nguồn năng lượng tiêu thụ
chính của Mỹ, nên Mỹ vẫn cần nguồn năng lượng tại biển Đông.
Tuy
nhiên, trữ lượng dầu mỏ ở biển Đông vẫn chưa được xác định chắc chắn và
vẫn còn ở mức thấp. Với tốc độ giá dầu ngày càng tăng như hiện nay,
tình hình tranh chấp tại biển Đông có thể căng thẳng hơn nếu người ta
tìm thấy bằng chứng về trữ lượng dầu mỏ đủ cho mục đích thương mại.[13]
Lợi ích quân sự
Biển
Đông là tuyến đường giao thông quan trọng trong hệ thống phòng thủ của
Mỹ nhằm đối phó với các thách thức an ninh truyền thống và phi truyền
thống như chống hải tặc và khủng bố, đặc biệt tại eo biển Malacca. Mỹ đã
đưa ra “Sáng kiến an ninh hàng hải khu vực” hồi tháng 4/2004 nhằm phát
triển quan hệ đối tác với các nước trong khu vực có khả năng kiểm soát
và ngăn chặn các mối đe dọa hàng hải thông qua luật quốc tế và trong
nước.[14]
Sáng kiến này có thể cho phép Mỹ đưa lực lượng hải quân tới eo biển
Malacca để ngăn chặn khủng bố, hải tặc, buôn lậu ma túy và người. Tuy
nhiên, sáng kiến an ninh của Mỹ bị Ma-lai-xi-a và In-đô-nê-xi-a phản
đối, vì các nước này khẳng định an ninh tại eo biển Malacca là trách
nhiệm của các nước ven biển.
Mỹ
duy trì các căn cứ quân sự tại Nhật Bản và Phi-lip-pin nhằm thực hiện
nhiệm vụ bảo vệ đồng minh Nhật Bản và Phi-lip-pin, từ đó củng cố lợi ích
và khẳng định vị thế của Mỹ ở biển Đông. Sau khi Mỹ và Phi-lip-pin ký
“Hiệp định trao đổi quân sự giữa hai nước” năm 1995, hạm đội 7 của Mỹ đã
được phép neo đậu lại tại các cảng của Phi-lip-pin ở biển Đông.
Chính sách của Mỹ đối với vấn đề biển Đông
Chính
sách của Mỹ đối với khu vực châu Á - Thái Bình Dương được duy trì nhất
quán trong nhiều năm và đường lối chính sách này vẫn sẽ tiếp tục dưới
thời chính quyền Obama.
Chính
sách đối ngoại của Mỹ tại biển Đông tập trung vào việc bảo vệ lợi ích
của Mỹ và đồng minh, Mỹ muốn thấy sự phát triển chứ không phải là xung
đột vũ trang xảy ra tại biển Đông. Mỹ cũng muốn duy trì quan hệ cân bằng
với các nước ven biển ở khu vực. Ngoài ra, Mỹ coi Đông Nam Á rất quan
trọng trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Từ cuối chiến tranh lạnh,
Mỹ đã tìm kiếm quyền kiểm soát Đông Nam Á để giành lợi thế địa chính trị
với mục tiêu ngăn cản sự nổi lên của các cường quốc khác.
Trong
một thời gian dài, Mỹ duy trì chính sách “không can dự” vào các tranh
chấp ở biển Đông. Từ sau chiến tranh Lạnh, Mỹ bắt đầu quan tâm nhiều hơn
tới xung đột tại biển Đông khi các tranh chấp tuyên bố chủ quyền tại
khu vực và các hoạt động đơn phương của các nước ven biển để hỗ trợ lập
trường đang tăng lên.[15] Mỹ không ủng hộ bất kỳ bên nào trong các tranh chấp, nhưng tin rằng các nước này nên giải quyết bằng phương pháp hòa bình.
Mỹ
luôn cho rằng “Vấn đề quyền chủ quyền hàng hải giữa các nước, đặc biệt
khi có những bất đồng, phải được các nước thiết lập theo Công ước Luật
biển của Liên Hợp Quốc” nhưng quan điểm của Mỹ đối với Công ước Luật
biển Liên Hợp Quốc khá phức tạp. Đây đã từng là một vấn đề gây tranh
cãi của nội bộ Mỹ trong một phần tư thế kỷ. Quốc hội Mỹ ủng hộ Công ước
Luật biển Liên Hợp Quốc và Tổng thống Clinton đã ký công ước này năm
1994. Nhưng Công ước này chưa được Thượng viện thông qua vì cho rằng
công ước sẽ gây rủi ro cho lợi ích của Mỹ, như việc thỏa thuận xung đột,
quyền khai thác tài nguyên tại vùng nước sâu, và quyền hành hợp pháp
của bộ máy quan chức quốc tế thuộc Liên Hợp Quốc.[16]
Sau
vụ tranh chấp tại bãi đá Vành Khăn giữa Trung Quốc và Phi-lip-pin tháng
2/1995, chính quyền Clinton đã phản ứng thận trọng và lặp lại quan điểm
chính sách lâu nay trong vấn đề biển Đông. Bộ Ngoại giao Mỹ cho biết Mỹ
phản đối mạnh mẽ việc đe dọa hay sử dụng vũ lực để khẳng định chủ quyền
của bất kỳ nước nào. Mỹ không đứng về phía bất kỳ nước nào đang có
tuyên bố tranh chấp và mong muốn ủng hộ giải pháp hòa bình trong tranh
chấp tại biển Đông. Mỹ cũng quan ngại sâu sắc tới các tuyên bố hàng hải
hay hạn chế hoạt động hàng hải tại biển Đông không tuân theo luật quốc
tế.
Củng cố quan hệ với đồng minh và đối tác
Để
bảo vệ lợi ích của mình, Mỹ củng cố quan hệ với đồng minh như Nhật Bản
và Phi-lip-pin để triển khai lực lượng quân sự, đảm bảo an ninh khu vực
và vị thế tại biển Đông. Liên minh an ninh Mỹ-Nhật, đang hoạt động liên
kết với ASEAN, có thể thúc đẩy một giải pháp lâu dài tại biển Đông.
Mỹ
khuyến khích các nước châu Á phát triển quan hệ an ninh đa phương. Để
giải quyết với vấn đề tranh chấp tại quần đảo Trường Sa, Mỹ nhấn mạnh
tầm quan trọng của liên minh quân sự với Phi-lip-pin và ủng hộ nỗ lực
xây lực cơ chế đa phương của ASEAN.[17]
Tăng cường quan hệ với Trung Quốc
Mỹ
quan ngại tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc tại biển Đông, ngân sách
quân sự ngày càng tăng, các hoạt động kinh tế và quân sự để khẳng định
chủ quyền trong khi phủ nhận chủ quyền của các nước khác. Nhưng đồng
thời Mỹ tăng cường quan hệ với Trung Quốc, hợp tác khai thác dầu khí để
bảo vệ lợi ích kinh tế, chống hải tặc để bảo vệ an toàn hàng hải ở biển
Đông. Mỹ còn muốn tăng cường hợp tác hải quân giữa Mỹ và Trung Quốc nhằm
duy trì an ninh ở châu Á- Thái Bình Dương và biển Đông.
Gần
đây xảy ra liên tiếp các vụ đụng độ giữa tàu hải quân Mỹ và Trung Quốc
tại khu vực biển Đông, gay gắt nhất là vụ đụng độ hồi tháng 3/2009. Đô
đốc Timothy J. Keating, Tư lệnh Bộ chỉ huy Thái Bình Dương Mỹ điều trần
trước Ủy ban quân lực của Thượng viện cho biết Mỹ đã đi đầu trong việc
cải thiện quan hệ với Trung Quốc, nhưng mối quan hệ này không được như
mong muốn. Ví dụ như việc Trung Quốc ngừng hoạt động trao đổi quân sự
giữa hai nước do Mỹ công bố bán vũ khí cho Đài Loan.
Ủng hộ và khuyến khích ASEAN
Mỹ
ủng hộ và khuyến khích ASEAN hợp tác để giải quyết hòa bình các tranh
chấp ở biển Đông, duy trì ổn định trong khu vực. Mỹ đã phát triển một cơ
chế hợp tác chính thức giúp hài hòa cả hai bên dựa trên luật quốc tế
như Công ước Luật biển Liên Hợp Quốc, và cơ chế này được tin là sẽ tối
thiểu hóa các căng thẳng. Mỹ muốn các bên tạo ra môi trường ổn định và
hòa bình. Mỹ cũng dự định bắt đầu tiến trình tiến tới gia nhập Hiệp định
Hữu nghị và Hợp tác của ASEAN, can dự vào tiến trình Thượng đỉnh Đông
Á. ASEAN có vị trí rất quan trọng đối với Mỹ và là nòng cốt chủ chốt
trong cơ chế hợp tác khu vực đang nổi lên tại châu Á nơi Mỹ có cam kết sâu sắc.[18]
ASEAN
và Trung Quốc đã ký Tuyên bố chung về ứng xử của các bên ở biển Đông
(DOC) ngày 4/11/2002. Đây là văn bản chính trị chính thức đầu tiên liên
quan đến biển Đông giữa ASEAN và Trung Quốc. Mỹ đánh giá DOC là một văn
kiện không có sự ràng buộc để giải quyết tranh chấp nhưng có tác dụng
giúp các bên học cách kiềm chế và tôn trọng tự do hàng hải và trên
không. DOC và COC nếu được xây dựng chỉ có tác dụng làm giảm căng thẳng,
thúc đẩy hợp tác và xây dựng lòng tin giữa ASEAN và Trung Quốc, chứ
chưa phải là một cơ chế quản lý hiệu quả và ngăn chặn các xung đột tiềm
năng.
Tóm
lại, các giới ở Mỹ gần đây cho là lợi ích của Mỹ bị đe dọa do tranh
chấp biển Đông leo thang đồng thời quan tâm hơn tới sự cải thiện lực
lượng hải quân của Trung Quốc trong khu vực. Đô đốc Timothy J. Keating
cho biết động thái chiến lược gần đây của lực lượng hải quân Trung Quốc
thể hiện tham vọng của nước này. Do đó, đã có ý kiến cho rằng chính sách
“không can dự” của Mỹ không còn hoàn toàn bảo vệ lợi ích của Mỹ tại
biển Đông, Mỹ cần dính líu hơn vào khu vực này. Mỹ dường như đang thay
đổi từ “không can dự” tới “can dự một phần” trong chính sách đối ngoại
với các nước ven biển và ASEAN tại biển Đông.
- Trang chu
- Trang liên kết-Gieo nhân nào gặp quả đấy!
- Cau-chuyen-cam-dong.
- Mot-cau-chuyen-co-that-
- Hai-hung-be-so-sinh-bi-tam-trong-nuoc.soi
- Noi cay dang cua o sin-bi Cuong ep ((sex))De tra no
- QUYỀN LỰC V À QUYỀN MƯU
- Khổng Tử: Đạo lý sáng suốt của người quân tử là ca..
- Duong Quy Phi
- Tôn Tẫn Nhà Quân Sư Lạc Lạc
- Han-Tin-chiu-nhuc.html
- Bàng quyên hai Tôn Tẫn.
- Bí mậti sắc đẹp của các mỹ nhân cung câm
- Bí Quyết dương da của Dương Quý Phi.
- .Bí mật lam đẹp Dương QuýPhi TRANG LIÊN KẾT
- chia sẻ xem trong gopgle
- Chuyện đời gái bán dâm từng bị thấy cướp đi cái ngàn vàng
- Nữ sinh tố thầy giáo hiếp dâm trong nhà nghỉ
- Bí ẩn về ngôi đình 'xe tăng kéo không đổ'